TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN
TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐỊNH, HƯỚNG DẪN
VỀ VIỆC XÉT XỬ TỘI PHẠM, XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH LIÊN QUAN ĐẾN PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH COVID - 19
* Cơ sở pháp lý:
- Bộ Luật Hình sự 2015;
- Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý VPHC và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP;
- Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC;
- Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực có liên quan đến công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong đó có dịch bệnh Covid-19: Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế; Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn…
* Văn bản hướng dẫn:
- Hướng dẫn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Toà án nhân dân tối cao về việc xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19;
- Công văn số 385/STP-XDKT&TDTHPL ngày 06/4/2020 của Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương về việc xử lý vi phạm pháp luật trong phòng, chống dịch Covid-19.
PHẦN I: VIỆC XÁC ĐỊNH TỘI DANH,
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI HÀNH VI PHẠM TỘI LIÊN QUAN ĐẾN PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH COVID-19
Câu hỏi 1: Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “trốn khỏi nơi cách ly” bị xử lý theo điều, khoản nào của Bộ luật Hình sự (BLHS)?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “trốn khỏi nơi cách ly” gây lây truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người
Câu hỏi 2: Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “Không tuân thủ quy định về cách ly” bị xử lý theo điều, khoản nào của BLHS?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “Không tuân thủ quy định về cách ly” gây lây truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người
Câu hỏi 3: Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly mà có hành vi “Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly” bị xử lý theo điều, khoản nào của BLHS?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly” gây lây truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người
Câu hỏi 4: Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối” bị xử lý theo điều, khoản nào của BLHS?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly có hành vi “Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối” gây lây truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người
Câu hỏi 5: Trong trường hợp nào người chưa bị xác định mắc bệnh Covid-19 nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa bị xử lý về tội “vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” theo quy định tại Điều 295?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người chưa bị xác định mắc bệnh Covid-19 nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295:
- Trốn khỏi khu vực bị cách ly, khu vực bị phong tỏa;
- Không tuân thủ quy định cách ly;
- Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;
- Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.
Câu hỏi 6: Khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng chống dịch bệnh Covid-19 của cơ quan, người có thẩm quyền, trường hợp nào chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ bị xử lý về tội “vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” theo quy định tại Điều 295 của BLHS?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ (như quán ba, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát-xa, cơ sở thẩm mỹ…) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng chống dịch bệnh Covid-19 của cơ quan, người có thẩm quyền, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội “vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” theo quy định tại Điều 295 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 7: Người có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh Covid-19, gây dư luận xấu bị xử lý theo điều,khoản nào của BLHS?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh Covid-19, gây dư luận xấu thì bị xử lý về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định tại Điều 288 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 8: Theo quy định của BLHS, người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nhân viên y tế, người tham gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19, người mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh Covid-19 có thể bị xử lý về tội gì?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nhân viên y tế, người tham gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19, người mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh Covid-19 thì bị xử lý về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 9: Người có hành vi lợi dụng dịch bệnh Covid-19 đưa ra thông tin không đúng sự thật về công dụng của thuốc, vật tư y tế về phòng, chống dịch bệnh nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác có thể bị xử lý theo điều, khoản nào của BLHS?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có hành vi lợi dụng dịch bệnh Covid-19 đưa ra thông tin không đúng sự thật về công dụng của thuốc, vật tư y tế về phòng, chống dịch bệnh nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 10: Người có hành vi đã, đang hoặc nhằm đưa trái phép thuốc, vật tư y tế dùng vào việc phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ra khỏi biên giới nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nhằm thu lợi bất chính có thể bị xử lý về tội gì?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có hành vi đã, đang hoặc nhằm đưa trái phép thuốc, vật tư y tế dùng vào việc phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội buôn lậu theo quy định tại Điều 188 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 11: Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh Covid-19 để mua vét hàng hóa nhằm bán lại để thu lợi bất chính bị xử lý về tội gì?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh Covid-19 để mua vét hàng hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội đầu cơ theo quy định tại Điều 196 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 12: Người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thì bị xử lý về tội gì?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thì bị xử lý về tội chống người thi hành công vụ theo quy định tại Điều 330 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 13: Người có trách nhiệm trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nhưng không triển khai hoặc triển khai không kịp thời, đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý về tội gì?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
Người có trách nhiệm trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nhưng không triển khai hoặc triển khai không kịp thời, không đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại Điều 360 của Bộ luật Hình sự.
Câu hỏi 14: Đề nghị cho biết việc áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp trong xử lý các tội liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì:
- Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng (như làm lây lan dịch bệnh cho từ 02 người trở lên, làm chết người…).
- Áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo theo đúng quy định của pháp luật đối với trường hợp phạm tội chưa gây ra hậu quả hoặc gây hậu quả ít nghiêm trọng (như chưa làm lây lan dịch bệnh).
- Ngoài việc áp dụng hình phạt chính, Tòa án xem xét áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp theo quy định của Bộ luật Hình sự.
PHẦN II: THẨM QUYỀN, MỨC PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM HÀNH CHÍNH LIÊN QUAN ĐÊN PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH COVID-19
Câu hỏi 15: Đề nghị cho biết, thẩm quyền và mức phạt VPHC đối với hành vi không thực hiện đeo khẩu trang khi tham gia nơi công cộng hoặc ra đường thuộc diện không cần thiết?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế, hành vi không thực hiện đeo khẩu trang khi tham gia nơi công cộng hoặc ra đường thuộc diện không cần thiết có thể bị Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Thanh tra viên y tế.
Câu hỏi 16: Đề nghị cho biết thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi vứt khẩu trang, các chất, vật dụng đã sử dụng không đúng nơi quy định có khả năng làm lây lan bệnh Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế, hành vi vứt khẩu trang, các chất, vật dụng đã sử dụng không đúng nơi quy định có khả năng làm lây lan bệnh Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Chánh Thanh tra Sở Y tế.
Câu hỏi 17: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không khai báo khi phát hiện người mắc bệnh Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế, hành vi không khai báo khi phát hiện người mắc bệnh Covid-19 có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Thanh tra viên y tế.
Câu hỏi 18: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không thực hiện việc xét nghiệm phát hiện bệnh Covid-19 theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền?
Trả lời: Theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế, hành vi không thực hiện việc xét nghiệm phát hiện bệnh Covid-19 theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Chánh Thanh tra Sở Y tế.
Câu hỏi 19: Đề nghị cho biết, thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không khai báo hoặc khai báo không trung thực, kịp thời diễn biến bệnh Covid-19 của bản thân với thầy thuốc, nhân viên y tế được giao nhiệm vụ?
Trả lời: Theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế, hành vi không khai báo hoặc khai báo không trung thực, kịp thời diễn biến bệnh Covid-19 của bản thân với thầy thuốc, nhân viên y tế được giao nhiệm vụ có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Thanh tra viên y tế.
Câu hỏi 20: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không tuân thủ chỉ định, hướng dẫn phòng, chống lây nhiễm bệnh Covid-19 của thầy thuốc, nhân viên y tế và nội quy, quy chế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh?
Trả lời: Theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi không tuân thủ chỉ định, hướng dẫn phòng, chống lây nhiễm bệnh Covid-19 của thầy thuốc, nhân viên y tế và nội quy, quy chế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Thanh tra viên y tế.
Câu hỏi 21: Đề nghị cho biết thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không đăng ký theo dõi sức khỏe với trạm y tế cấp xã nơi cư trú của người mắc bệnh Covid-19 sau khi ra khỏi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi không đăng ký theo dõi sức khỏe với trạm y tế cấp xã nơi cư trú của người mắc bệnh Covid-19 sau khi ra khỏi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Thanh tra viên y tế.
Câu hỏi 22: Đề nghị cho biết thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi trốn khỏi nơi cách ly, không tuân thủ quy định về cách ly đối với người mắc bệnh Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 10 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi trốn khỏi nơi cách ly, không tuân thủ quy định về cách ly đối với người mắc bệnh Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc thực hiện việc cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế theo quy định.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở y tế.
Câu hỏi 23: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi che giấu tình trạng bệnh của mình hoặc của người khác khi mắc bệnh Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi che giấu tình trạng bệnh của mình hoặc của người khác khi mắc bệnh Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Chánh Thanh tra Sở y tế.
Câu hỏi 24: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh Covid-19 tại vùng có dịch?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 và Điểm a Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh Covid-19 tại vùng có dịch có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức).
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở Y tế.
Câu hỏi 25: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi tập trung quá 02 người trở lên tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện và không giữ khoảng cách tối thiểu 2m để phòng, chống dịch Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 và Điểm c Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi tập trung quá 02 người trở lên tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện và không giữ khoảng cách tối thiểu 2m để phòng, chống dịch Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức).
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở y tế.
Câu hỏi 26: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng để phòng, chống dịch bệnh Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 và Điểm c Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng để phòng, chống dịch bệnh Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức).
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở y tế.
Câu hỏi 27: Đề nghị cho biết, thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không thực hiện quyết định kiểm tra, giám sát, xử lý y tế trước khi ra vào vùng có dịch Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi không thực hiện quyết định kiểm tra, giám sát, xử lý y tế trước khi ra vào vùng có dịch Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở y tế.
Câu hỏi 28: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi cung cấp hoặc đưa tin sai về số liệu, tình hình dịch bệnh Covid-19 so với số liệu, tình hình dịch bệnh mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế đã công bố?
Trả lời: Theo quy định tại điểm a Khoản 2 và 5 Điều 5 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, hành vi cung cấp hoặc đưa tin sai về số liệu, tình hình dịch bệnh Covid-19 so với số liệu, tình hình dịch bệnh mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế đã công bố có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc cải chính thông tin sai sự thật trên phương tiện thông tin đại chúng trên địa bàn liên tục trong 03 ngày.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở Y tế.
Câu hỏi 29: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4; Khoản 1 và Khoản 3 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, hành vi cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19 có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức) và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định
Thẩm quyền xử phạt: Giám đốc Công an tỉnh; Chánh Thanh tra/Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Sở Thông tin và Truyền thông.
Câu hỏi 30: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi không niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19 tại địa điểm phải niêm yết giá theo quy định của pháp luật hoặc niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 3; Khoản 1 và Điểm a Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2016/NĐ-CP), hành vi không niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19 tại địa điểm phải niêm yết giá theo quy định của pháp luật hoặc niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng; trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Mức phạt trên áp dụng đối với cá nhân (đối với tổ chức vi phạm bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Chánh Thanh tra Sở Tài chính.
Câu hỏi 31: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19 do tổ chức, cá nhân định giá không thuộc Danh mục bình ổn giá, hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 3; Khoản 3 và 7 Điều 12 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn, hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19 do tổ chức, cá nhân định giá không thuộc Danh mục bình ổn giá, hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (đối với tổ chức vi phạm bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân) và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc trả lại cho khách hàng số tiền đã thu cao hơn giá niêm yết, trường hợp không xác định được khách hàng để trả lại thì nộp vào ngân sách nhà nước.
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Chánh Thanh tra Sở Tài chính.
Câu hỏi 32: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi cản trở; xúi giục, lôi kéo; kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoặc có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ phòng, chống dịch Covid-19?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4; Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì:
Hành vi cản trở; xúi giục, lôi kéo; kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoặc có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ phòng, chống dịch Covid-19có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân (đối với tổ chức vi phạm bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp xã; Trưởng công an cấp huyện; Trưởng phòng thuộc công an tỉnh; Chánh Thanh tra các Sở có liên quan, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường đang thi hành công vụ .
Câu hỏi 33: Thẩm quyền và mức phạt đối với hành vi dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành công vụ hoặc gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ phòng, chống dịch Covid-19 mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 và Điểm a, b Khoản 3 Điều 20 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì:
Hành vi dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành công vụ hoặc gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ phòng, chống dịch Covid-19 mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với cá nhân (đối với tổ chức vi phạm bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).
Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND cấp huyện; Trưởng công an cấp huyện; Trưởng phòng thuộc công an tỉnh; Chánh Thanh tra các Sở có liên quan, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường đang thi hành công vụ .
(Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương)